Thiết kế Tàu bọc thép lớp Định Viễn

Xung đột hải quân với các cường quốc phương Tây hồi đầu thế kỷ 19 như trong cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhấtlần thứ hai, trong đó các tàu chiến châu Âu đã đánh tan nát hạm đội thuyền buồm truyền thống của Trung Quốc, đã thúc đẩy một chương trình tái vũ trang lớn bắt đầu từ những năm 1880 dưới thời Tổng đốc của tỉnh Trực Lệ, Lý Hồng Chương. Các cố vấn của Hải quân Hoàng gia Anh cũng đã hỗ trợ chương trình này, và mớ tàu đầu tiên - bao gồm nhiều tàu pháo bọc thép và hai tàu tuần dương nhỏ-đuowjc mua từ các xưởng đóng tàu của Anh [1] Sau một cuộc tranh chấp với Nhật Bản trên đảo Đài Loan, Hải quân Trung Quốc đã quyết định mua các thiếp giáp bọc thép hạm lớn để đối phó với các tàu bọc thép Fusōlớp Kongō của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đang được đóng. Anh không muốn bán tàu chiến cỡ đó cho Trung Quốc vì sợ xúc phạm Đế quốc Nga, mặc dù đã bán tàu tương tự của Nhật Bản, nên Lý Hồng Chương đã chuyển sang mua từ xưởng đóng tàu của Đức.[1]

Kaiserliche Marine(Hải quân Đế quốc) của Đức vừa hoàn thành bốn chiếc tàu bọc thép lớp Sachsen, và đề nghị bán cho Trung Quốc tàu chế tạo theo thiết kế sửa đổi của lớp đó. Lý Hồng Chương muốn mua tới 12 chiếc tàu bọc thép cỡ lớn, nhưng điều kiện tài chính eo hẹp đã buộc giảm đơn đặt hàng còn ba chiếc tàu, trong đó chiếc Tể Viễn bị giảm kích thước thành tàu tuần dương bảo vệ. Thay vì lắp các khẩu súng chính trên một cặp bệ súng mở cố định như trong lớp Sachsen, thiết kế mới để đặt bốn khẩu súng trong hai bệ xoay nằm về phía trước con tàu. Hai chiếc tàu của lớp, Định ViễnTrấn Viễn, được chế tạo với chi phí khoảng 6,2 triệu Mark vàng Đức, tương đương với khoảng 1 triệu lượng bạc Trung Quốc.[1]

Đặc điểm chung và máy móc

Các tàu thuộc lớp Đinh Viễn dài 308 foot (94 m) ở mặt nước và 298,5 ft (91,0 m) tổng thể. Chúng có một chiều ngang 60 ft (18 m) và đáy cao 20 ft (6,1 m). Các tàu trọng tải choãn nước 7.144 tấn Anh (7.259 t) như thiết kế và lên tới 7.670 tấn Anh (7.790 t) khi đầy tải. Vỏ tàu được chế tạo từ thép và được chế tạo với một mũi tông tàu. Tàu được điều khiển bởi một bánh lái duy nhất.[1] Mỗi tàu có một đội thủy thủ gồm 363 sĩ quan và thủy thủ. Tàu được trang bị hai cột buồm quân sự hạng nặng, một ở ngay trước súng chính và một phía sau. Một boong dạo bao phủ các tháp pháo và chạy từ trước đến các ống khói. Mỗi chiếc tàu mang theo một cặp tàu phóng lôi hạng hai ở phía xa của các ống khói, cùng với các cần cẩu để hạ chúng.[1]

Định ViễnTrấn Viễn, được trang bị một cặp động cơ hơi nước dạng thùng ba xi-lanh nằm ngang, mỗi động cơ lái một cánh quạt trục vít duy nhất. Hơi nước được cung cấp bởi tám trụ nồi hơi được nối với một cặp ống khói giữa tàu. Các nồi hơi được chia thành bốn phòng nồi hơi. Các động cơ được đánh giá ở mức 6.000 mã lực chỉ (4.500 kW) cho tốc độ tối đa 14,5 hải lý trên giờ (26,9 km/h; 16,7 mph), mặc dù cả hai tàu đều vượt quá con số này khi chạy thử nghiệm, với chiếc Trấn Viễn, đạt 7.200 ihp (5.400 kW) và vận tốc 15,4 kn (28,5 km/h; 17,7 mph) [1] Các tàu chở 700 tấn Anh (710 t) than thường ngày và có thể lên tới 1.000 tấn Anh (1.000 t); điều này cho phép bán kính hoạt động 4.500 hải lý (8.300 km; 5.200 dặm) với tốc độ 10 kn (19 km/h; 12 mph).[1] Cả hai tàu đều được gắn buồm cho chuyến đi từ Đức đến Trung Quốc, mặc dù sau đó chúng đã được gỡ bỏ.[1]

Vũ khí và giáp

Tổng quan về cách bố trí của một chiếc tàu bọc thép lớp Định Viễn

Các tàu được trang bị bộ pháo chính gồm bốn pháo 12 in (30 cm)/25 li, gắn trong hai bệ súng. Các bệ súng có khả năng là đã được sắp xếp khác nhau trên Định Viễn và Trấn Viễn, nhưng súng của cả hai tàu đều được đặt tại vị trí giống hệt nhau, với tháp mạn trái nằm phía trước của pháo mạn phải. Các khẩu súng này Pháo Krupp 32 tấn (31 tấn Anh; 35 tấn thiếu). Pháo phụ bao gồm hai khẩu 15 cm được gắn riêng lẻ, một trên mũi tàu và một trên đuôi tàu. Ba ống phóng ngư lôi 356 mm (14,0 in) cũng được trang bị trên tàu; một cái được gắn ở đuôi tàu và hai cái còn lại được đặt phía trước pháo chính, tất cả đều ở trên mặt nước.[1]

Giáp đai của lớp dày 14 in (36 cm), trong khi giáp cho các tháp pháo chính dày 12 in (30 cm). Boong tàu bọc thép dày 3 in (7,6 cm) chạy toàn bộ chiều dài của tàu trong các đầu không được bảo vệ. Tháp chỉ huy đã mạ thêm 8 in (20 cm) giáp, trong khi các khẩu 15 cm mỗi khẩu súng đều có tháp pháo có giáp có độ dày từ 3–0,5 in (7,6–1,3 cm).[1]